Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính

Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 1

Nguyễn Bính là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám. Giữa những giọng điệu mới lạ, thơ Nguyễn Bính vẫn giữ được âm hưởng gân gũi với ca dao dân ca, giản dị hồn nhiên mà ngọt ngào, thắm thiết. Tương tư in trong tập Lỡ bước sang ngang, xuất bản năm 1940 tại Hà Nội. Tập thơ này đã mang lại tiếng vang cho tác giả và dấy lên trong đông đảo người đọc một phong trào thuộc thơ, yêu thơ Nguyễn Bính. Bài thơ Tương tư nói lên tâm trạng khắc khoải chờ mong của một chàng trai đang yêu với tình yêu đơn phương không được đáp đền. Mối tương tư ấy được đặt vào khung cảnh nông thôn với dáng dấp một mối tình chân chất như trong ca dao và mang hương vị đồng quê mộc mạc…

Tâm lí của những kẻ đang yêu là luôn muốn được gần gũi bên nhau. Bởi vậy, một ngày không gặp dài bằng ba thu. Những người đang yêu nhớ nhau mà không gặp được nhau thì sinh ra tương tư. Thường là một người thương nhớ một người mà không được đền đáp lại, trường hợp này trong văn chương mới gọi là tương tư. Lịch sử tình yêu xưa nay đã ghi nhận bao trái tim Trương Chi tan nát bởi mối hận tình. Chàng trai trong bài thơ này cũng tương tư nhưng có phần nhẹ nhàng hơn bởi tình yêu chưa đặt được cơ sở rạch ròi.

Bốn câu thơ đầu bày tỏ nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu. Chàng trai không giấu là mình tương tư:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Nắng mưa là bệnh của giời 
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng…

Mối tương tư ấy được thể hiện bằng những hình thức quen thuộc trong cã dao xựa, ở đây, lối hoán dụ nghệ thuật, thủ pháp nhân hóa và thành ngữ dân gian kết hợp với nhau hài hòa, tự nhiên: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, rồi bệnh của giời, bệnh của tôi… Dường như đất trời cũng chia sẻ nhớ mong, dự phần tương tư với con người.

Tôi yêu nàng, tôi tương tư, nào có khác chi trời lúc gió lúc mưa. Tâm trạng tương tư của chàng trai cũng tự nhiên như quy luật của trời đất vậy.

“Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện cùng với những “cái tôi” khác trong Thơ mới lúc bấy giờ; có điều nó mang màu sắc độc đáo bởi nó thiết tha, chân thành, gần gũi với cuộc đời bình dị của người dân quê. Nó có thôn Đông, thôn Đoài, có chín nhớ mười mong, có giầu, có cau… Tưởng như một đôi trai gái đồng quê mới bén duyên nhau bên hàng rào dâm bụt, bên giậu mùng tơi, vừa rõ ràng mà vừa mơ hồ. Nhân vật tôi thì đã rõ, còn nhân vật nàng thì vẫn thấp thoáng, vu vơ.

Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ nói thật là mình đang tương tư thì đến ba khổ thơ sau, nhà thơ trách người mình yêu sao quá hững hờ:

Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Những đây cách một đầu đình, 
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi ?
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho ?
Bao giờ bến mới gặp đò ?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau ?

Vậy là chàng trai đang nhớ thật, đang tương tự thật, nhưng khổ tâm ở chỗ nhớ thương có đi mà không có lại. Âm điệu thơ lục bát uyển chuyển, mượt mà rất hợp với cách thể hiện dung dị: nào là hai bên chung lại một làng, bên ấy, bên này; nào là Cách nhau có một đầu đình; Có xa xôi mấy mà tình xa xôi… Trách móc rồi tự bộc bạch là mình Tương tư thức mấy đêm rồi và ước mong: Bao giờ bến mới gặp đò, Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau? Trách, hỏi liên tiếp, dồn dập mà người ta vẫn hững hờ, xa xôi. Ở đời có những tình yêu như thế bởi đối tượng mình yêu đến tương tư kia lại mơ hồ, vô định. Trách và hỏi đều rơi vào khoảng trống khiến cho nỗi tương tư càng trở nên xót xa, vô vọng.

Vẫn là bên ấy, bên này cách biệt. Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nay đã thành cây lá vàng. Thời gian cứ lạnh lùng trôi mà bên ấy vẫn bằn bặt bóng chim tăm cá. Hỏi làm sao bên này chẳng chờ đợi đến hao mòn, tàn úa? Mơ làm chi đến chuyện bao nhiêu ngói bấy nhiêu tình hay chuyện tam tứ núi, ngũ lục sông…?

Thế là đã rõ: Tất cả đều vu vơ, chỉ có một điều rất thật là nỗi buồn da diết của chàng trai đang tương tư. Yêu người mà chẳng được người yêu, nhớ mong mà chẳng gặp. Một mối tình như thế sẽ kết thúc ra sao? Chàng trai trở lại với ước mơ thầm kín về một cuộc hôn nhân tốt đẹp cùng nỗi băn khoăn, khắc khoải của lòng mình:

Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?

Đến lúc này thì không cần vòng vo, ẩn giấu chi nữa, chàng trai không còn xưng tôi mà mạnh dạn xưng là anh và gọi nàng bằng em. Cũng chẳng cẩn bóng gió xa xôi: Bao giờ bến mới gặp đò… hay Tương tư thức mấy đêm rồi… mà nói thẳng đến chuyện hôn nhân:

Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thử hình dung cau ấy, giầu này mà kết thành một mâm xinh đẹp thì thật tà đúng nghi lễ cưới xin. Nhưng trớ trêu làm sao: giầu thì ở nhà em, cau lại ở nhà anh. Em ở thôn Đông, anh ở thôn Đoài: Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông. Vậy: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? Như vậy là tương tư chưa đi quá nỗi nhớ và nỗi nhớ vẫn chỉ là một bên, một chiều. Tuy có nhích lên một chút cho thân mật hơn trong cách xưng hô anh và em, nhưng rồi lại quay về nơi ẩn náu cũ: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, nghĩa là chẳng tiến lên được một bước nào. Mon men tới chuyện trầu cau nhưng vẫn không thoát khỏi nỗi buồn bởi nhớ nhung người ta mà chẳng được người ta đền đáp lại. Cho nên đành chấm dứt nỗi sầu bằng một câu hỏi tu từ: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? “Cái tôi” hiện đại bộc lộ một cách tự nhiên dưới hình thức quen thuộc của ca dao xưa: thôn Đoài, thôn Đông… và nhờ dó mà nỗi đau dường như vợi bớt. Cho nên nỗi tương tư cũng mới chỉ đến mức chín nhớ mười mong hoặc thức mấy đêm rồi, kể cả sự vô vọng dường như kéo dài dằng dặc trong không gian và thời gian kia cũng chỉ là chuyện bến chưa gặp đò, hoa chưa gặp bướm mà thôi.

Đọc Thêm  Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Ngữ Văn Lớp 9

Nguyễn Bính sáng tác Tương tư năm 1939. Bài thơ là một mảnh hồn của nhà thơ, là “cái tôi”mang đậm phong cách Nguyễn Bính: giản dị, hồn nhiên, dân dã mà không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Nhà thơ nói chuyện tương tư, kì thực là nói tới khao khát tình yêu và hạnh phúc. Qua dó khẳng định “cái tôi cá nhân” với quyền được sống đúng nghĩa của nó. Tương tư là một trong nhiều dẫn chứng chứng minh cho nhận xét tinh tế của Tô Hoài: Nguyễn Bính là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê.

Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 2

Với phong cách thơ bình dị, nhẹ nhàng, chân chất; Nguyễn Bính được xem là nhà thơ của đồng nội. Thơ Nguyễn Bính đi sâu vào tâm hồn người đọc bằng chất “quê” đặc biệt, chất “quê” của nông thôn Việt Nam.Tình yêu trong thơ ông rất đỗi ngọt ngào, sâu lắng và dìu dặt như chính con người ông. Bài thơ “Tương tư” rút trong tập “Lỡ bước sang ngang” giãi bày tâm sự thầm kín của một người đang yêu, đang thương nhớ, đang khắc khoải và mong chờ đau đáu.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bính đặt tên bài thơ là “Tương tư”, đây là cảm giác nhớ thương của một kẻ đang yêu, nói đúng hơn là của kẻ yêu đơn phương, đang mong chờ được đáp lại. Mối tình ấy được ấp ủ, được dồn nén thành lời qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhất:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Nắng mưa là bệnh của giời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng

Một không gian thôn quê hiện lên thật bình dị, đơn sơ, và yên bình đến lạ. Thủ pháp nhân hóa được sử dụng rất tài tình, tinh tế. Tác giả mượn “thôn Đoài” và “thôn Đông” để nói lên nỗi nhớ từ tận sâu đáy lòng của mình. Chắc hẳn rằng người mà tác giả đang tương tư ở thôn Đông, còn tác giả lại ở thôn Đoài. Mối tình ấy ẩn mình trong sự thanh mát và bình dị của đồng quê.

Tinh tế và sâu sắc hơn nữa tác giả đã mượn chuyện nắng của của giời để trải lòng mình. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như quy luật của đất trời.

Chỉ với 4 câu thơ ấy, đã khiến người đọc thích thú muốn tìm hiểu về mối tương tư của anh chàng thôn Đoài và cô nàng thôn Đông này.

Tuy nhiên đến những câu thơ tiếp theo, dường như lại là lời trách móc nhẹ nhàng và rất chừng mừng. Trách cô gái hững hờ, trách người ta sao lại vờ như không biết gì như thế:

Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này ?

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Bảo rằng cách trở đò giang,

Không sang là chẳng đường sang đã đành.

Những đây cách một đầu đình,

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi ?

Tương tư thức mấy đêm rồi,

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho ?

Bao giờ bến mới gặp đò ?

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau ?

Những câu hỏi dồn dập, nối tiếp nhau tạo nên sự nối rối, lo lắng và chồng chất nỗi niềm trong lòng chàng trai đang yêu. Tác giả đã mượn lối nói dân gian của ca dao, dân ca để hỏi dò cô gái sao lại hững hờ như vậy.

Giọng điệu của câu thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển, tha thiết như truyền tải thông điệp đến cho cô gái. Từ “cớ sao” như một lời trách nhưng lại rất tế nhị, đáng yêu. Mối tương tư của chàng trai trằn trọc suốt bao nhiêu đêm, nhưng chẳng biết ngỏ cùng ai, rồi cũng chẳng ai thấu cho. Bởi vậy mà chàng trai chỉ chờ đợi “bến gặp đò” để mình có thể gặp nàng. Nỗi băn khoăn trong lòng chàng trai cứ chồng chất, cứ dai dẳng và đợi chờ.

Và rồi chàng trai lại tự hỏi:

Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ?

Nhịp điệu của thơ lục bát uyển chuyển, nhẹ nhàng, tha thiết. Tác giả mượn “giàn trầu” và “hàng cau” để diễn tả nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi diễn tả nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc ấy. Ở 4 câu thơ này, người đọc nhận ra có sự thay đổi giữa cách xưng hô, tác giả đã mạnh dạn chuyển “tổi-nàng” thành “anh-em” rất táo bạo. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình này đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái.

Cái “tôi” trữ tình của Nguyễn Bính đã được đẩy cao lên, dám bày tỏ, dám yêu. Nhưng tình cảm đó không táo bạo mà ngược lại rất chân thành, mãnh liệt, đồng thời lại rất tế nhị.

Bằng những vần thơ gần gũi, chân thành, đậm hương vị đồng quê, tác giả đã gieo vào lòng người đọc những tình cảm nhẹ nhàng, tha thiết nhất của những người đang yêu. Bài thơ như một nốt nhạc trong lành và yên bình nhất.

Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 3

Nguyễn Bính nổi tiếng là một hồn thơ mang đậm chất ca dao, dân ca và bài thơ “Tương tư” viết năm 1939 in trong tập “ Lỡ bước sang ngang” (1940) của ông là một minh chứng cho đều đó. Nỗi nhớ trong bài thơ là nỗi nhớ của một mối tình quê, được diễn tả bằng những cách thức và những lời nói của dân quê, của dân gian.

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Hia thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua, ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau
Nhà em có một giàn giầu.
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”

Đọc Thêm  Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga [Bài viết HAY NHẤT]

Người con trai trong thơ Nguyễn Bính sống cùng làng nhưng khác thôn với cô gái mà anh ta yêu. Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ khá lạ: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Làm gì có chuyện cả một thôn này tương tư cả thôn kia? Anh chàng này chỉ đang nói quá nên thôi. Nhưng điều này là cần thiết, để khỏi đường đột, để khỏi khiến cô gái bất ngờ. trong cái tập thể thôn Đoài ấy, anh ta mới bắt đầu tách ra:  “Một người chín nhớ mười mong một người”.  Thì ra chỉ có mọt người nhớ và một người được nhớ mà thôi.

“Gió mưa là chuyện của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Chàng thanh niên như đang tự thanh min, rằng yêu nàng không phải là ý muốn chủ quan nào của tôi, không phải là tự tôi muốn có, bởi tôi tự đâu muốn tôi đau khổ đến thế mà mang căn bệnh đó vào người. Căn bệnh ấy vốn là tự nhiên mà có, tình yêu ấy vốn là tự nhiên mà đến, cũng như trời đâu có muốn gió mưa làm gì, chẳng qua đó là một quy luật mà đến trời cung phải chịu, không thể nào tránh được. Anh ta giãi bày tình yêu của mình mới thật khéo làm sao. Anh ta không là nguyên nhân của căn bệnh này, cho nên anh ta tự đi tìm nguyên cớ sao mình lại mắc căn bệnh tương tư.

“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Ngày qua ngày lại ngày ngày
Lá xanh nhuộm đã thành hai lá vàng
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi”

Tuy không chỉ đích danh nhưng qua những câu thơ ta hiểu, anh ta đang cho rằng lỗi thuộc về phía người con gái. Vì sao cô ta mang lỗi? Bở cô ta chẳng bao giờ sang bên này. Vậy vì sao cô ấy lại không sang? Anh chàng tự đưa ra các lý do rồi cũng tự mình gạt bỏ. Cô ấy không sang vì “cách trở đò ngang ư”? Không phải, hai thôn cách nhau mỗi một đầu đình, gần trong gang tấc chứ đâu phải không có lối sang. Ca dao xưa có câu “Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”. Có tình yếu thì dù có bao thử thách, khó khăn cũng sẽ vượt qua để đến với nhau, huống chi “hai thôn chung lại một làng”. Chỉ có một lý do duy nhất lí giải sự vô tâm của cô gái đó là: tấm lòng. Tấm lòng hay nói cách khác là tình yêu của nàng không hướng về tấm lòng của chàng trai “tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” kia. Chắc hẳn, chàng trai cũng nhận ra điều đó nên mới ngậm ngùi chịu mang mối tình tương tư. Lời trách móc của chàng trai danh cho cô gái vừa nhẹ nhàng nhưng cũng vừa sâu cay, vừa tha thiết nhưng cũng vừa ai oán làm sao! Những từ ngữ “bảo rằng”, “đã đành”, “nhưng đây”, “có xa xôi mấy”, tự nhiên như lời lẽ của một anh trai quê nói với người khác lại như tự sự với chính mình, sao mà chất phác, tội nghiệp, chân tình đến thế. Nhưng trách người thì có được gì đâu, chẳng qua là buồn quá, đau khổ qua thì trách vậy mà thôi. Trách để mà trách, cuối cùng vẫn chỉ có mình mình với mình mà thôi, chẳng có ai quan tâm hay sẻ chia cùng cả.

“Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai hỏi ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”

Anh chàng thương nhớ để mà hi vọng, tuy chỉ là hi vọng mong manh mà thôi. Cùng với hình ảnh “bến” và “đò” vốn đã quen thuộc trong ca dao, Nguyễn Bính đưa thêm cặp hình ảnh “hoa khuê các” và “bướm giang hồ” để mang lại ý nghĩa gợi cảm và ý nghĩa mới mẻ hơn cho câu thơ. Cô là “hoa khuê các”, là con nhà gia giáo, nề nếp, giàu sang, còn anh chỉ là “bướm giang hồ”, là kẻ phiêu bạt, lang thang nghèo khổ, hai người chênh lệch nhau quá lớn, anh thật khó để sánh với cô. Vậy mà anh vẫn nuôi hi vọng, mong chờ.

Đoạn kết bài thật xót xa nhưng cũng thật đẹp:

“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào”

Người dân quê khi nói đến tình yêu thường nhắc ngay đến trầu cau. Trầu cau bắt đầu cho một tình yêu đẹp và cũng với cơi trầu quả cau, hai con người yêu nhau sẽ nên vợ nên chồng. trầu và cau luôn đi liền với nhau mà trầu cau thì cả hai người thì đều có sẵn, em có “giàn giầu”, anh sẵn “hàng cau”. Nghĩ đến chuyện đó sao mà đẹp thế, dịu dàng và âu yếm đến thế. Nhưng giữa cái hình ảnh kết hợp đầy ẩn ý ấy, ý nghĩa chia biệt vẫn là một hiện thực đắng cay:

“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”

Câu trên láy lại câu thơ đầu tiên của bài “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”, láy lại nhưng đã có sự thay đổi: tác giả thay chữ “ngồi” bằng chữ “thì”. “Thôn Đoài thì nhớ…” câu thơ như khẳng định nỗi nhớ đã trở thành một chuyện dĩ nhiên, một thực tế không cần che dấu hay bàn cãi. Nhưng “cau thôn Đoài” có được quyền nhớ giàn giầu không thôn Đông hay không? Chuyện hai người rồi có đi đến một cái kết vui vẻ hay đến cuối cùng vẫn chỉ chàng trai mang trong mình nỗi nhớ và tình yêu tương tư, đau khổ. Câu hỏi đặt ra mà không có lời giải đáp. Chàng trai vẫn hi vọng, vẫn chờ đợi nhưng trong lòng vẫn dâng lên một niềm hoài nghi, không chắc chắn.

Kín đáo mà rõ ràng, xa mà gần, mối tình sôi nổi, thiết tha mà vẫn chừng mực, kín đáo, đó chính là tình yêu trong bài “Tương tư” này. Bài  thơ mang đậm tính dân ca, ca dao truyền thống. giữa phong trào Thơ mới rộn ràng, các nhà thơ mới đang đi theo sự ảnh hưởng của thơ Pháp và châu Âu thì Nguyễn Bính vẫn giữ cho mình một lối thơ riêng, không Tàu mà cũng không Tây, hồn thơ ấy hồn hậu, mộc mạc mang đậm tình cảm quê hương, đó chính là cái đặc sắc làm nên tên tuổi của nhà thơ Nguyễn Bính.

Phân tích bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính – Bài làm 4

Nếu như trong phong trào thơ mới Xuân Diệu tiếp thu những nét thơ hiện đại phương Tây để làm nên những đặc sắc thơ của chính mình thì Nguyễn Bính lại giữ nguyên những giá trị truyền thống để làm nên những phong cách của mình. Ông lưu giữ những màu sắc dân tộc Việt Nam. Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật ấy là bài thơ tương tư, có thể nói bài thơ thể hiện được những trạng thái cảm xúc của những con người đang yêu nhau. 
Mở đầu bài thơ hình ảnh nhớ mong, có thể nói nỗi tương tư tình cảm nhớ nhung ấy không thể nào khiến cho nhà thơ dồn nén được nữa cho nên nhà thơ bật ngay trong những câu thơ đầu nỗi lòng mình:

Đọc Thêm  Đây thôn vĩ dạ cảm nhận và phân tích vẻ đẹp bài thơ

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông 
Một người chín nhớ mười mong một người 
Gió mưa là bệnh của giời 
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông hiện lên quen thuộc, nhịp điệu như dìu dặt đưa thoi như những câu ca dao của thời xưa. Tình yêu của những đôi trai gái phát sinh nảy nở giữa không gian làng quê. Đó chính là không gian của hai thôn là thồn Đoài và thôn Đông. Hai hình ấy như đại diện thay mặt cho anh và em. Ở đây ta thấy phong cách nghệ thuật của nhà thơ, nhà thơ không bày tỏ tình cảm một cách hiện đại như Xuân Diệu mà ông chọn cách thể hiện kín đáo như ca dao xưa. Không những thế thì hình ảnh của hai thôn này còn xuất hiện rất nhiều trong thơ Nguyễn Bính. Một người ngồi đây chín nhớ mười thương một người. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến câu ca dao “Chín nhớ mười thương” của ca dao. Ở đây nhà thơ đã sử dụng sáng tạo câu ca dao ấy qua đó ta thấy được những nét truyền thống trong thơ Nguyễn Bính. Đồng thời thể hiện được tâm trạng nhớ thương của người con trai dành cho người con gái. Không dừng lại ở đó mà nhà thơ còn thể hiện được những nỗi nhớ kia qua việc so sánh việc nắng mưa của trời và việc nhớ thương của người đang yêu. Nắng mưa chính là những hiện tượng tự nhiên hàng hữu thì nỗi nhớ, sự tương tư kia cũng chính là sự hằng hữu trong chính trái tim của người con trai đang yêu. Đã yêu là phải nhớ, phải tương tư, nó là một quy luât như nắng mưa của trời vậy.

Đến những câu thơ tiếp theo thì chúng ta lại thấy những lời trách móc của chàng trai khi thấy được thể hiện lên. Những hình ảnh thân thuộc của giếng nước, gốc đa, mái đình lại xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính:

“Hai thôn chung lại một làng 
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này? 
Ngày qua ngày lại qua ngày 
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng 
Bảo rằng cách trở đò giang 
Không sang là chẳng đường sang đã đành 
Nhưng đây cách một đầu đình 
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi? 
Tương tư thức mấy đêm rồi 
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho? 
Bao giờ bến mới gặp đò 
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?”

Hai thôn ấy chung một làng mà sao nghe cách xa đến vậy, nếu mà nhớ người ta thì phải tìm đường mà sang thăm người ta chứ đằng này lại còn trách người ta không sang với mình. Cũng không biết được rằng có phải cô gái không sang không hay là tại vì nỗi tương tư kia khiến cho người tương tư thấy thời gian quá dài làm cho họ tưởng rằng đã bao lâu rồi không thấy người thương sang. Mà khi người ta đã tương tư rồi thì lúc nào cũng thấy người kia vô tâm, vô tình lắm. Những ngày qua ngày mà nhà thơ cứ tưởng là đã qua mấy mùa rồi. Vì buồn nhớ cho nên nhìn cảnh vật cũng như thay đổi “lá xanh đã nhuộm thành cây lá vàng”. Chỉ có những người tương tư mới có thể hiểu hết được tâm trạng chờ đợi người yêu đến, một phút mà dài tựa ba thu. Thế rồi nhà thơ khẽ trách người yêu của mình vì nếu có cách sông thì còn không sang được huống chi đây cách có mỗi một đầu đình mà sao nghe tình cảm xa xôi quá trời. Trách rồi nhà thơ lại giãi bày những nỗi tương tư của mình. Chính bởi tương tư nàng nên nhà thơ mới thức trắng mấy đêm rồi. Một câu hỏi cất lên vừa là lời trách móc, vừa là lời bày tỏ tình cảm lại vừa là một câu hỏi không có câu trả lời. Thức trắng đêm không biết vì ai, cho ai, nói như thế nhà thơ nhằm thể hiện cái “ai” ở kia chính là người con gái. Trong sự trách móc hờn giận ấy nhà thơ tự hỏi không biết đến khi nào thì hai người mới gặp được nhau. Hình ảnh bến đò trong những câu thơ tình lại hiện lên trong tương tư của Nguyễn Bính. Ở đây không thể hiện sự lìa xa mà mong ước đoàn tụ.

Những câu thơ cuối bài cất lên như một ước nguyện với cái kết viên mãn của một lễ vu quy giản dị nhưng lại hạnh phúc:

“Nhà em có một giàn giầu 
Nhà anh có một hàng cau liên phòng 
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông 
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”

Hình ảnh trầu cau thể hiện ước nguyện đến bên nhau của nhà thơ với người con gái mình yêu. Gian giầu kia cũng như đang chờ đợi hàng cau đến để làm nên những miếng trầu kết duyên vợ chồng. Từ nôi nhớ tương tư kia nhà thơ mong muốn được nên duyên vợ chồng với người con gái nọ. Miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu như gợi ta nhớ đến sự tích trầu cau trong truyện cổ tích. Chính sự tích ấy đã mang lại những miếng trầu thật ngon thấm đẫm tình vợ chồng. Nét quê hương hiện lên qua hình ảnh trầu cau ấy, lễ vật cho ngày cưới thiếu gì thì thiếu chứ không thể nào thiếu được trầu cau. Câu thơ “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” một lần nữa lại được cất lên. Như vậy mở đầu bằng nỗi nhớ thì cuối cùng nhà thơ cũng kết thúc bằng một nỗi nhớ. Và câu thơ cuối lại như trách móc rằng không biết cau thôn Đoài hay chính là người con gái kia có nhớ đến mình không hay là nhớ đến người khác.

Như vậy qua đây ta thấy được những tâm tư tình cảm của nhà thơ khi viết bài thơ này. Có thể nói chính những hình ảnh làng quê quen thuộc với những câu thơ mang đậm chất truyền thống dân tộc và mang hơi thở của ca dao nên bài thơ cứ thế đi vào lòng người với những giai điệu nhịp nhàng nhưng lôi cuốn. Nỗi tương tư được thể hiện rất kín đáo và thân thương. Cả bài thơ kết tụ của nỗi nhớ tương tư người yêu thế rồi cảm thấy người ta như đang vô tâm với mình vậy.

Danh mục: Văn họcTừ khóa:

Bài viết cùng chủ đề:

About the Author: aiti-aptech

You May Also Like

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *