Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến

Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến

Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – Bài làm 1

Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nồm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hổn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.

Dáng thu trong Thu vịnh thăm thẳm, xa vời, quen mà lạ. Trời thu thì xanh ngát những mấy từng cao; khóm tre thu nhỏ lại trong hinh ảnh cần trúc, sương như khói phủ thành tầng trên mặt nước,  song thưa để mặc bỏng tràng vào, hoa năm nay bỗng thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, mơ hổ… Hổn thu như lắng chìm vào bôn trong, ẩn chứa ở chiều sâu.

Dáng thu, hồn thu ở bài Thu điếu lại chất chứa trong sự thu nhỏ và lặng im của cảnh vật : chiếc thuyền câu bé tẻo teo, nước biếc trên mặt ao chỉ gợn tí, lá vàng khẽ rơi vèo không thành tiếng, tiếng cá đớp động rất nhẹ dưới chân bèo. Tất cả đều im lìm, tĩnh mịch. Tưởng chừng như ông câu cũng hoá đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong sự chờ đợi mỏi mòn giữa không khí yên lặng gần như tuyệt đối.

Trở lại với hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là có ý so sánh đế nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này, ở đây, dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ có khác.

Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị .

Hai câu để:

Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.

Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ xuống một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te thi đã rõ ra là lụp xụp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo, ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập loè lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.

Đọc Thêm  Aspirin là thuốc gì? Công dụng, Liều dùng, Cách sử dụng và Giá bán

Hai câu thực:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.

Hai câu luận:

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe.

Nguyễn Khuyến tả cảnh trời và cảnh mình. Dường như bầu trời và con người đều bị một thế lực vô hình nấo đó làm cho biến đổi: Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu ? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ ai trong câu thơ lấp lửng một mối hoài nghi lấp lửng nhưng không vô ý. Đây cũng là biểu hiện tâm trạng của nhà thơ chăng? Hay là nó cũng cùng một mạch với cảm nhận hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái và nghe tiếng ngỗng văng vẳng trên không mà giật mình tự hỏi là ngỗng nước nào ? Tâm tư nhà thơ trĩu nặng trước cảnh đất nước bị lũ giặc ngoại xâm giày xéo mà mình thì đau đớn, day dứt khồng nguôi.

Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường: RƯỢU tiếng rằng hay, hay chẳng mấy, Chỉ dăm ba chén đã say nhè. Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế ? Do người nhìn say rượu chăng bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.

Âm thanh bài thơ cũng theo điệu ấy. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở các từ: le te, lập loè, loe, đỏ hoe, say nhè. Tất cả các từ quy vào âm chủ đạo là e: từ nhè, say nhè mà ra rồi nhoè ra thành nguyên âm đôi oè (lập /oè), oe (loe, hoe), các vần này cũng lảo đảo say theo, say mạnh hơn. Cảnh vật cũng như say: ánh sáng đom đóm hoá lập loè, bóng trăng chập chờn loe ra theo làn sóng, mắt người tự nhiên cũng đỏ hoe. Trong câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm / nối tiếp nhau, càng làm tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chĩ ở bóng trăng mà ở cả mặt ao, làn nước và từ đó lan toả ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ say nhè.

Nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu vắng. Sau dăm ba chén, hơi men đã khơi dậy tâm tư. Nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn nhà thơ thấm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu ẩm là ở đó. Nhà thơ buồn bã, day dứt không nguôi trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cả cảnh vật đêm thu. Đã có lúc không uống rượu và tâm trạng dường như vui hơn, cụ Tam Nguyên tự cười mình và cũng thấy mình chuếnh choáng: Khấp khểnh ba chân dở tĩnh say kia mà.

Đọc Thêm  Nhân đa thức với đa thức lớp 8 – Quy tắc và Một số dạng bài tập

Phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến – Bài làm 2

Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu (Âm: uống, uống rượu). Nó có nghĩa là một trong bài thơ Nôm về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá) Thu vịnh (mùa thu làm thơ) và Thu ẩm. Cũng có nhiều bài thơ khác về mùa thu bằng chữ Hán, ba bài này đều in đậm hai nét tiêu biểu cho tâm hồn thơ của tác giả: đó là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc bộ thời xưa và thắm đượm vào cảnh vật là tâm tư của nhà thơ trước cảnh tình đất nước thời gian ông từ quan về sống ở quê nhà. Tất nhiên, ở mỗi bài là dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng.

Dáng thu trong Thu vịnh là cái gì cao thăm thẳm xa vời, quen mà hóa lạ. Trời thu thì xanh ngắt những mấy từng; cây tre thu lại chỉ còn một cần trúc; khói phủ thành từng trên mặt nước; song cửa đê mặc ánh trăng vào; hoa năm nay giấu vào hoa năm ngoái, tiếng ngỗng vang trong mơ hồ… Hồn thu như lắng chìm vào bên trong, ấn chứa ở chiều sâu. Dáng thu, hồn thu trong Thu điếu là cái gì cũng như thu mình cho nhỏ bé, cho lặng im: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo, mặt ao chỉ gọn tí, mảnh lá vàng rơi vèo không thành tiếng, cá quẫy chỉ động nhẹ dưới chăn bèo. Tất cả cùng mọi vật khác đều như im lìm trong một không khí lặng yên, tĩnh mịch của một sự đợi, đợi chờ tưởng như ông câu cũng hóa đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong cái lắng chìm vào bên trong, cái đợi chờ mỏi mòn trong yên lặng như thế.

Với lên hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là mượn chút so sánh để nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này. Dáng thu, hồn thu, cả tâm tư nhà thơ có khác.

Cảnh vật vẫn là cảnh vật ở hai bài thơ kia: Từ nhà từ vườn nhìn ra đồng, cái ao, rặng tre, hàng dậu, lối xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở hai bài thơ trên kia, Nguyễn Khuyến là nhà thơ, là ông câu cá, còn ở đây ông khề khà ly rượu. Nhưng cũng chính từ cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến dạng, đầy bất ngờ mà thú vị.

Hai câu đề:

Ba gian nhà cỏ thấp le te

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe

Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te đã rõ là thấp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo: Ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm lập lòe làm cho ngõ tối và đêm sâu lúc tối, lúc sáng thành ra cũng biến dạng.

Hai câu thực cũng vậy:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làm áo lóng lánh bónq trăng loe.

Đọc Thêm  Phân tích vẻ đẹp sử thi của nhân vật Tnú trong Rừng Xà Nu

Sương thu lớt phớt như khói mỏng phủ bờ giậu khiến cho cây xanh cũng chẳng còn màu đêm. Câu thơ đặc biệt miêu tả tài tình: Mặt ao cũng không còn phẳng lặng mà lăn tăn gợn sóng và ánh trăng chiếu vào nên lóng lánh; bóng trăng chiếu xuống nước gợn sóng cũng chẳng còn nguyên hình mà chao lại loe ra, dồn lại, biến dạng liên tiếp.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Cảnh trời và cảnh mình. Trời cũng như mình đều do ai đó làm cho biến đổi: Trời thì ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy mà cũng đỏ hoe? Người nghiên cứu bảo cụ Tam nguyên đau mắt, có lần mắt đỏ như máu, hay là do rượu say? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ “ai” lấp lửng một mối hoài nghi, nghe lửng lơ nhưng chắc không phải vô ý. Bỗng dưng lại lấy một thế lực nào đó bên ngoài tác động vào trời, nhuộm cả da trời, rồi bỗng dưng mắt mình “đỏ hoe nước mắt”. Đây cũng là nét tâm tư của nhà thơ? Nó cùng một mạch cảm thương như hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái, và tiếng ngỗng bay qua trời mình mà nghĩ mà ngỡ là ngỗng nước nào. Tâm tư nhà thơ không ngoài nét buồn đau trước cánh nước mất, lũ giặc lũ gian giày xéo mà mình thì bất lực, bứt rứt không nguôi.

Cuối cùng là tửu tượng cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay chả mấy nên chỉ dăm ba chén đã say nhè. Nhìn chung tại sao lại có sự biến hình đổi dạng này? Do rượu chăng? Sao nhìn vật một hóa thành hai, ba, hoặc nhòa nhạt tất cả. Dáng hình biến đổi, màu sắc, đường nét nổi lên nhòe ra chập lại, lảo đảo như say.

Âm thanh cũng theo điệu ấy, có vẻ say. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở tất cả các từ: le te, lập lòe, đỏ hoe, say nhè. Cả câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l, càng tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng dưới nước mà ở cả mặt ao, làn ao. Từ đó mà cảm giác ngả nghiêng chao đảo ấy lan tỏa ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ “say nhè” ở chót câu cuối nhưng rồi âm thanh và ý nghĩa lại dội ngược lên toàn bài.

Thế là nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu này. Sau dăm ba chén, tâm tư đã nhòa ra, thẩm thấu vào cảnh vật, khiến cho dáng thu, hồn thu đều cùng biến dạng, lảo đảo, say nhè. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu Ẩm này là ở đó. Nhà thơ say vì nỗi buồn trước vận nước và bứt rứt khôn nguôi trong lòng. Mượn vài chén rượu cho khuây nhưng uống vào lại thấy nỗi niềm ấy hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo cả cảnh vật đêm thu. Có lúc không rượu mà tâm trạng chừng vui hơn, cụ Tam nguyên đã tự cười mình và cũng thấy người mình như say: Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say kia mà!

Danh mục: Văn họcTừ khóa:

Bài viết cùng chủ đề:

About the Author: aiti-aptech

You May Also Like

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *