Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ

Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ

Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ – Bài làm 1

Đỗ Phủ (712 – 770) tên chữ là Tử Mĩ, hiệu là Thiếu Lăng, người huyện Củng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Thủa trẻ Đỗ Phủ cũng đi thi nhưng không đỗ. Suốt cuộc đời, ông sống trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Tuy vậy, ngọn lửa đam mê văn chương trong lòng ông không bao giờ tắt. Ông sáng tác rất nhiều và để lại cho đời hàng ngàn bài thơ có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời ông đang sống và chan chứa lòng yêu nước thương đời. Với những đóng góp to lớn cho nền thi ca Trung Quốc nói riêng và nền văn hóa nhân loại nói chung, Đỗ Phủ đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.

Bên cạnh những bài thơ được coi là “thi sử” (lịch sử bằng thơ), Đỗ Phủ còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. Trong những bài thơ đặc sắc có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu). Đây là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu.. Tứ Xuyên là vùng núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc bi thương là cảm xúc chủ đạo của Thu hứng.

Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, Vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li: lo cho hiện tình của đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.

Phiên âm chữ Hán:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thồi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Dịch nghĩa:

Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong
Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt
Gió lộng sông, sóng vọt lên tận lưng trời,
Trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u.
Khóm cúc nở hoa đã: hai lần (làm) tuôn rơi nước mắt ngày trước,
Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ.
Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
Về chiều, thành Bạch Đế cao, tiếng chày đập áo nghe càng dồn dập.

Dịch thơ tiếng Việt:

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
(Nguyễn Công Trứ dịch)

Bài thơ có thể chia làm hai phần: Bổn câu thơ đầu (đề, thực) là bức tranh vé thiên nhiên mùa thu ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang. Bốn câu sau chủ yếu thể hiện cảm hứng của thi nhân trước cảnh thu về trên đất khách.

Ở cặp câu thứ nhất, chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)

Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đôi cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay từ câu thơ đầu tả cảnh rừng phong:

Ngọc lộ điếu thương phong thụ lâm (Lác đác rừng phong hạt móc sa). Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, có rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.

Câu thứ hai: Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. Nhắc, đến Vu sơn, Vu giáp là người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia. Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bản dịch, từ lòa cùng với từ hiu hắt chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ khi tiêu sâm (tối tăm, ảm đạm). Chữ ngàn non thay thế cho Vu sơn, Vu giáp khiến bản dịch dễ hiểu song lại làm mờ nhạt bản sắc của phong cảnh Quý Châu. Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng hiểm trở và hùng vĩ. Được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Suốt cả chiều dài bảy trăm dặm, núi tiếp núi dọc đôi bờ sông, tuyệt không có một chỗ trống. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm.

Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau: trĩu nặng một nỗi buồn thương.

Vẫn tiếp tục quan sát thiên nhiên với tâm trạng như thế nên Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tả thực đầy ám ảnh như có ma lực cuốn hút hồn người:

Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Ở hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp, vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Sông ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. Vì thế nên mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Trong câu thơ dịch : Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn, thẳm đặc tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Hình ảnh: Mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa.

Nếu ở hai câu trên, cảnh sắc nhuốm màu bi thương tàn tạ thì ở đây cảnh sắc lại có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ.

Bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, đặt cạnh nhau tạo thành một bức tranh mùa thu rộng lớn, hiển hiện rõ ràng cái hồn đặc trưng của mùa thu chốn núi non với đủ cả rừng phong, dãy núi, bầu trời, lòng sông, mặt đất, mây mù, cửa ải xa… Sức khơi gợi, liên tưởng của bức tranh thu ấy trong tâm hồn người đọc là vô biên, vô tận. Tuy tác giả chưa nhắc tới cảnh đời điêu linh nhưng hình như nó đã thấp thoáng ẩn hiện sau hình ảnh những cánh rừng phong xơ xác vì sương gió, hình ảnh đất trời đảo lộn trên sóng nước Trường Giang và mây xám mịt mù vùng quan ải. Đứng trước khung cảnh ấy, một nhà thơ có trái tim nhạy cảm như Đỗ Phủ làm sao lại không nhớ thương quê cũ đến cháy lòng ?!

Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất Chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ củ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)

Đây là hai câu hay nhất trong bài thơ chữ Hán của Đỗ Phủ cũng như trong bản dịch của Nguyễn Công Trứ.

Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, điều đó không có gì mới. Điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ. Câu thơ nguyên văn chữ Hán ; Tùng cúc lường khai tha nhật lệ (Khóm cúc nở hoa đã hai lần, làm tuôn rơi nước mắt ngày trước). Nguyễn Công Trứ dịch thoát ý là : Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ cũng rất hay, giúp người đọc hình dung ra tâm trạng cô đơn chất chửa sầu thương của Đỗ Phủ trong những tháng năm phiêu bạt, xạ quê hương sâu nặng nghĩa tình. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào.

Hoa cúc là yếu tố gợi nhớ, hình ảnh con thuyền càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: Cô chu nhất hệ cố viên tâm. (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ). Câu thơ dịch bỏ mất tính từ cô trong Cô chu chứa chất đầy tâm, trạng của Đỗ Phủ nơi đất khách. Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ đầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.

Hai câu kết:

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)

Ở hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ.
Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh nhanh cho việc may áo ấm. Hãy đọc lại câu thơ thứ tư: Tái thượng phong vân tiếp địa âm. (Trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u). Lúc này, Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo còn đó. Trời tối rồi (mộ), không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang… “Ngôn tận nhi ý bất tận” (lời hết mà ý không hết). Đỗ Phủ cảm thấy Không lời lẽ nào có thể nói hết nỗi niềm Thu hứng.

Đọc Thêm  Định nghĩa đường trung trực của đoạn thẳng và tính chất

Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là kết cấu hết sức chặt chẽ câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu ”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng Chày đập vải). Tác giả thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thờ. Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ Phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chi còn ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ. Hẳn ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình đời.

Ở trong bài thơ, các mối quan hệ giữa xa và gần, giữa không gian và thời gian, giữa thị giác và thính giác, giữa thu hứng có sự liên kết chặt chẽ. Sự vận hành của tứ thơ rất lôgíc: từ xa đến gần, từ không gian mà cảm nhận thời gian, từ ngoại cảnh thể hiện nội tâm. Hàm ẩn trong mỗi câu, mỗi chữ là tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ Phủ.

Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Thu hứng dạt dào xuất phát từ rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ đã được thể hiện đầy đủ qua ngọn bút thần tình. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Cùng với một số bài thơ nổi tiếng khác như Đăng cao, Mao ốc thu phong vị sở phá ca . . được lưu truyền rộng rãi qua hàng ngàn năm, Thu hứng góp phần khẳng định tài năng kiệt xuất của Đỗ Phủ. Ông xứng đáng được người đời tôn vinh lá bậc “Thi thánh” của thơ? Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.

Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ – Bài làm 2

Đỗ Phủ được coi là một trong những nhà thơ  vĩ đại nhất Trung Quốc. Tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không thể thực hiện được điều này. Cuộc đời ông, giống như cả đất nước, bị điêu đứng  năm 755, và 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến động. Nhưng sự nghiệp sáng tác của ông thì vô cùng phong phú, nổi bật lên đó là bài thơ Thu Hứng.

Đỗ Phủ  sáng tác rất  nhiều bài thơ trữ tình thể hiện tình cảm  của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. Trong những bài thơ đó nổi bật và  đặc sắc  nhất có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu). Đây là bài thơ được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu..  Vùng đất Tứ Xuyên  có  núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc trong lòng Đỗ Phủ để có   cảm xúc chủ đạo viết lên bài  Thu hứng là một bức tranh mùa thu cô đơn tẻ nhật ảm đạm, đây cũng  là bức tranh  để tác giả thể hiện tâm trạng trĩu nặng u sầu của mình  trong cảnh  đất nước đang loạn li, tác giả lo cho  đất nước đang lâm vào  tình cảnh rối ren, loạn lạc;  lỗi nhớ  quê hương và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách. Hai câu thơ đầu đã thể hiện những hiu hút hiu quạnh của mùa thu :

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn non hiu hắt, khí thu hòa. Cảnh tượng vào mùa thu thật khiến cho tâm hồn con người xao xuyến mông lung có cái cảm giác trống trải trong tâm hồn con người, và những cảnh vật thiên nhiên xao sát khiến cho tâm hồn còn người sầu lại càng sầu hơn, Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm, trĩu nặng một nỗi buồn thương. Cảnh mùa thu những chiếc lá bay bay sào sạt trên rừng phong rộng mênh mang khiến cho con người có cảm giác trống trải. Hai câu thơ tiếp theo đó là ảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi),  cảnh thu dưới thấp. Sông ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. Vì thế nên mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Trong câu thơ dịch : Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn, thẳm đặc tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa:

Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Quan sát thiên nhiên với tâm trạng buồn cô đơn vì vậy  Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tả thực. cảnh sắc nhuốm màu bi thương và cũng có những nét bi tráng . Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Bốn câu thơ tiếp theo là cảm xúc của tác giả khi ở nơi đất khách quê người :

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.

Cảnh vật thật buồn hiu quạnh khi lệ cứ tràn rơi trên nhưng tròm hoa cúc, hoa cúc là nhân tố  gợi  ra những nỗi nhớ, hình ảnh con thuyền cũng  làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: “Cô chu nhất hệ cố viên tâm’’. (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ).. Chiếc thuyền lẻ loi  là một ẩn dụ đầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.  Hai câu thơ  cuối  nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh  đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ.

Khí thu lạnh lẽo khiến lòng người khô quạnh. hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu ”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng Chày đập vải). Tác giả thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thờ. Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ Phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chi còn ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ.   Ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình đời.

Nỗi lo âu cho đất nước, nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi ngậm ngùi, xót xa cho thân phận mình được Đỗ Phủ thể hiện đậm nét qua bài Thu Hứng và để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.

Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ – Bài làm 3

Đỗ Phủ là nhà thơ lỗi lạc có nhiều đóng góp lớn cho thi ca Trung Quốc, ông là một thi sĩ tiêu biểu, với số lượng tác phẩm để lại không hề nhỏ. Tấm lòng lương thiện, nhạy cảm với cuộc sống với đời, những bài thơ ông viết ra, đều mang tư tưởng yêu nước, hay còn gọi là “ yêu nước thương đời”  đồng thời phản ánh chân thực thời đại mà ông đang sống. Với tâm hồn nghệ sĩ, những phút xao lòng với những đổi thay của đất trời, của thời tiết cũng khiến cho những câu từ trong chính tâm hồn in đậm lên trang giấy. Thu Hứng hay còn gọi là“ Cảm hứng mùa thu” là một trong những bài , tiêu biểu cho hồn thơ của Đỗ Phủ.

Đề tài về thiên nhiên đặc biệt là sự thay đổi của không gian của đất trời khiến cho các thi sĩ không ít khi nao lòng. Mùa thu là mùa mà khiến cho tâm hồn con người ta trở nên lãng mạn, thả hồn theo gió, ta cũng thấy một thứ gì đó vừa man mác lại vừa thấm đượm mùi vị đất trời chênh vênh. Cảm hứng mùa thu là bức tranh màu thu hắt hiu , mang nặng tâm trạng tu sầu của tác giả trong lúc đất nước lâm vào cảnh rối ren, nỗi thương nhớ quê hương dâng lên nghẹn ngào, và buồn thương cho thân phận mình nơi đất khách quê người..

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thồi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Đọc Thêm  Phân tích bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến

Sau khi được phiên âm, bài thơ “ cảm hứng mùa thu” lại dễ dàng đi sâu vào lòng người đọc. Những cảnh vật hiện ra trong bài thơ nối tiếp nhau, nhưng bị bao phủ bởi một nỗi buồn khôn tả. Cùng với những vần thơ mềm mại mà thấm đượm, nguyễn công trứ đã mang “ cảm hứng mùa thu” lại gần hơn, đặc biệt thể hiện được cả những điều mà Đỗ Phủ đã gửi gắm

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
(Nguyễn Công Trứ dịch)

Có thể thấy rõ được, trong bài thơ, bốn câu đầu là “ câu đề” với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang.

Ở cặp câu thứ nhất, chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã phác thảo ra được cái thần chiều thu ở Quý Châu:

 Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)

 Có thể thấy được hoặc cũng có thể cảm nhận được, tác giả đang đứng ở vị trí cao để quan sát được toàn cảnh ở nơi đây.Mọi thứ được miêu tả không những theo chiều sâu và còn theo tầm mắt của tác giả, nhìn về phía xa xăm. Hiện ra đầu tiên là hình ảnh rừng phong với sương móc còn phủ trên chúng, tạo ra cảnh tượng buồn,đặc biệt rừng phong lại càng nhấn mạnh thêm sự li biệt khi lá phong chuyển sang đỏ, khi mùa thu đến. Những dấu hiệu như rừng phong hay những hạt sương , dưới con mắt của tác giả, cũng phần nào cho người đọc thấy được mùa thu đang đến gần. Hai câu thơ mở đầu tuy là đều rừng núi nhưng lại chung một điểm , đó chính là nỗi buồn đang dần ngấm vào tác giả, nỗi buồn ấy chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi đặt bút ngâm thơ. Với tâm trạng như vậy, Đỗ Phủ biết những vần thơ tiếp theo:

Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

 Nếu như ở hai câu mở đầu là hình ảnh của rừng phong, là sự quan sát từ trên cao xuống thì 2 câu tiếp theo lại miêu tả cảnh sắc vừa hoành tráng lại dữ dội. Nó như muốn lột cả cảnh rừng núi Vu Sơn Vu Giáp vừa tráng lệ nhưng cũng bí hiểm âm u.  Bốn câu thơ, nhưng ở mỗi câu là một nét chấm phá, là sự nhìn nhận toàn cảnh chứ không tập trung vào một điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, rừng núi hiện ra vừa cụ thể lại vừa đặc trưng cho mùa thu. Nhưng chính hình ảnh này, lại khiến tác giả nhớ tới quê hương tới nao lòng.

Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách.  Với nghệ thuật đối được sử dụng ở câu năm câu sáu, lại khiến tâm trạng của tác giả dâng lên:

 “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ củ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)

 Bốn câu cuối tập trung vào miêu tả cảm xúc cũng là những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm, đó là lòng mong ngóng quê nhà, nỗi khát khao được trở về quê hương, tình yêu và sự buồn bã khi phải sống tha phương. Hình ảnh hoa cúc là hình ảnh đặc trưng cho mùa thu, cũng là hình ảnh mà tác giả phải rơi lệ khi nhìn thấy, nhớ tới mùa thu ở quê hương mình. Những hình ảnh được sử dụng như con thuyền( cô chu) là một con thuyền đơn độc, nhưng là con thuyền hy vọng mang tác giả về quê hương của mình. Ở cuối bỗng đột ngột âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong hoàng hôn. Âm thanh duy nhất ấy đã  đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng nó chẳng thể đủ để xua đi những áng mây buồn đang bủa vây tâm hồn thi sĩ với những nét chấm phá mạnh mẽ trong tác phẩm cùng với lấy trọng tâm chính là tả cảnh và bộc lộ cảm xúc,những vần thơ trở nên có hồn và làm rung lên sợ dây tình cảm của độc giả.

 Qua bài thơ “ cảm hứng màu thu”, ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm lại rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, cái tư tưởng “ yêu nước thương đời “ lại càng thể hiện rõ. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ.. “ cảm xúc mùa thu” đã đòng góp một phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng của ông, cũng như là một bài thơ tiêu biểu về mùa thu của thi ca Trung Quốc.

Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ – Bài làm 4

Đỗ Phủ là nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông đã có rất nhiều thành tựu nổi bật trong nền văn học của nước nhà, những tác phẩm có ông có giá trị lớn và mang đậm những phong vị quê hương mùa xuân sâu sắc, tiêu biểu cho những sáng tác đó là bài thơ Thu Hứng của Đỗ Phủ.

Bài thơ đã mang đậm những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng nó vừa tạo nên cảm giác gần gũi và gắn bó với con người và thiên nhiên Việt Nam. Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên với những hình ảnh gợi cảm và mang âm điệu nhẹ nhàng đó là hình ảnh rừng phong, với những núi non xanh và không khí thiên nhiên thoáng đãng, hình ảnh thiên nhiên đó đã mang đậm những nét đặc sắc và tiêu biểu cho thiên nhiên Việt Nam. Đứng trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ tác giả đang nhớ mong và có những cảm xúc đặc biệt trước không gian nơi đây, hình ảnh đó đã tác động vào tâm trí của người đọc và người xem:

Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Hình ảnh thiên nhiên thơ mộng nó gắn bó với con người và không gian nơi đây, hình ảnh rừng phong cho lác đác đã thể hiện những khung cảnh thiên nhiên thoáng đãng nó mang một âm điệu nhẹ nhàng và tràn đầy cảm xúc cho người đọc. Những khung cảnh thiên nhiên khác đã lộ ra trong không gian thiên nhiên nơi đây, với núi non và dòng sông xanh thẳm, mặt đất đang nghiêng ngả trên những áng mây, và những dòng nước uốn quanh, hình ảnh sông núi đã hiện lên rất sâu sắc trong lòng của tác giả, đứng trước khung cảnh thiên nhiên đó tác giả đang mong nhớ tới hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiện hữu trước mặt mình, nó làm tăng lên vẻ đẹp dịu hiền và thoáng đãng trong tâm hồn của tác giả khi viết lên bức tranh thiên nhiên đầy cảm xúc.

Mặt nước vang dội lên những hình ảnh núi non và sông núi sâu thẳm, trên trời cao có mây trắng rợn ngợp nó bủa vây trong lòng tác giả, và tác giả cũng đang nhớ mong về những hình ảnh thiên nhiên nhiều màu sắc đó. Một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ đã hiện lên trong bốn câu thơ đầu, tác giả đã vẽ lên những hình ảnh nhiều màu sắc và nó sống động và cũng nhẹ nhàng mang những màu sắc của không gian mùa thu, lá vàng rơi trong làn gió heo may, và hình ảnh đó đã mang những cảm xúc của thiên nhiên đất trời, nhưng nó cũng mang một nỗi buồn của không gian thiên nhiên khi hình ảnh lá rêu phong và hình ảnh những núi non ngàn bay cùng với dòng sông thẳm, những hình ảnh đó đã gợi tả một nỗi buồn man mác nó làm tác giả có cảm xúc thật đặc biệt với không gian nơi đây.

Trong tâm hồn của tác giả cũng không quên đi những hình ảnh của đất nước nó đã gắn chặt với hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, hình ảnh đó đã thể hiện được tình yêu quê hương đất nước, những dòng lệ tuôn rơi đã làm cho tác giả nhớ mong tới hình ảnh của đất nước, một đất nước đau thương tác giả đang thể hiện tâm trạng về thời thế của mình, đứng trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và buồn thơ mộng tác giả cũng có những cảm xúc đặc biệt riêng và nó là cảm xúc về thời thế của đất nước một đất nước đang phải chịu nhiều đau thương, hình ảnh khóm trúc tuôn dòng lệ cũ cũng thể hiện rõ được những chi tiết đó:

Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.

Ở đây tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa để thể hiện được hình ảnh đau thương và tâm trạng về thời thế của mình, tác giả đã sử dụng hình ảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng của chính mình, đó là hình ảnh khóm trúc cũng biết tuôn lệ, khóm trúc cũng biết đau thương cũng biết khóc cho nỗi đau của nước nhà, hình ảnh đó đã vang dội và nó có sự ảnh hưởng rất lớn tới người đọc hôm nay và mai sau, con thuyền đó là hình ảnh thể hiện những mối tình nhà và những mối tình của quê hương đất nước, tác giả đã thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc và qua đó thể hiện một tình yêu quê hương đất nước nồng nàn của tác giả.

Con thuyền đã buộc chặt tâm hồn của tác giả vào hình ảnh một đất nước đã phải nhiều đau thương mất mát nó làm cho tâm hồn của tác giả đau đớn và mối thù nhà sẽ mãi nằm trong trong tâm trí của người đọc bởi những hình ảnh đất nước đang phải chịu nhiều đau thương tuyệt vọng, mối thù đó đã mang đậm những hình ảnh về thiên nhiên và đất nước của người đọc, một đất nước đau thương mỗi người đều phải thể hiện được tình yêu thiên nhiên đất nước của mình trong đó, mỗi người sẽ là những tấm gương sáng cho một tấm lòng yêu nước thủy chung và mối thù đó đã mang trong tâm hồn những hình ảnh về một đất nước anh hùng.

Những mối thù đấy đã in sâu trong tâm trí của mỗi người trước hết là ở tâm hồn của tác giả, tác giả đang thể hiện một lòng căm thù giặc sâu sắc và hình ảnh của hai câu thơ cuối đã mang đậm những điều thần kì và một sức mạnh to lớn đối với thiên nhiên và quê hương đất nước, những lời chiến đấu vẻ vang đã sống động trong lòng mỗi con người hình ảnh chày vang đã thể hiện được sự chiến đấu kiên cường và sự bất diệt trước hình ảnh của kẻ thù xâm lược, không có gì có thể lấy đi niềm chiến đấu anh dũng của nhân dân Việt Nam.

Đọc Thêm  Cảm nhận về tác phẩm Người cầm quyền khôi phục uy quyền của V Huy Gô

Tác giả đã rất thành công khi mượn hình ảnh thiên nhiên để nói về nỗi buồn thời thế của mình, mượn hình ảnh thiên nhiên để nói về tâm trạng của mình, với những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng hùng vĩ tác giả cũng đã hình dung được một khung cảnh thiên nhiên đậm chất hào hùng, nó mang đậm màu sắc và những hình ảnh đó đã thể hiện được sâu sắc niềm tin trong lòng của tác giả và mọi người.

Hình ảnh thiên nhiên đã đậm nét trong tâm hồn của tác giả khi đứng trước một khung cảnh thiên nhiên rộng lớn đó tác giả đang hình dung về một không gian thiên nhiên và nó làm cho tâm hồn của chính tác giả cũng đang có những cảm xúc rất đặc biệt, nhưng dựa vào những điều đó mà làm cho tâm hồn của tác giả lại có những điều nhẹ nhàng và cảm xúc về thời thế lại hiện lên rõ hơn khi mối thù nhà đã in đậm vào trong tâm hồn của tác giả, những hình ảnh đó đã thể hiện sâu sắc trong lòng của tác giả.

Bài thơ đã mang đậm những hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ nó thể hiện một nỗi buồn sâu sắc và vang dội trong lòng của tác giả dường như tác giả đang thể hiện những tâm trạng của mình trong đó, nó là những cảm xúc hết của tác giả về thời thế và những hình ảnh đó đã làm cho tác giả có những cảm xúc  và nó hết sức sâu sắc và mang đậm phong vị của thiên nhiên, quê hương và hình ảnh về cảm úc khi đứng trước mùa xuân thiên nhiên của đất trời.

Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ – Bài làm 5

Đỗ phủ sinh ra và lớn lên trong tình cảnh đất nước Trung Quốc triền miên trong cảnh loạn li mặc dù ông giữ một chức quan nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn ông đã rơi vào tình cảnh phiêu bạt. Đỗ Phủ là nhà thơ lớn nhất không chỉ của thơ Đường mà là trong cả lịch sử Trung Quốc. Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn . Trong số đó cá bài thơ “Thu Hứng” là bức tranh mùa thu hiu hắt và đó cũng chính là tâm trạng của nhà thơ đồng thời bìa thơ cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật thơ Đường thời bấy giờ.

Bốn câu thơ đầu là cảnh được bao quát trong tầm mắt rộng và xa:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, 
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. 
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, 
Tái thượng phong vân tiếp địa âm. 
(Lác đác rừng phong hạt móc sa, 
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa. 
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, 
Mặt đất mây đùn cửa ải xa. )

Bốn câu thơ dầu tả cảnh thu đầy màu sắc và âm thanh vừa có chất vừa có họa. Ta có cảm nhận được ông đang đứng ở vị trí tương đối cao để có thể ngắm nhùn toàn cảnh vật ví thế khả năng quan sát của ông cũng  khá cao và rất là rộng nên ông đứng ở đó có thể nhìn được toàn cảnh bức tranh thiên nhiên mùa thu . Cảnh rừng phong được nhà thơ nhắc đến trong những câu thơ đầu tiên. Mùa thu thì gắn với những cánh rừng phong đang vào mùa rụng lá, cảnh rừng phong đã chuyển sang màu đỏ tượng trưng cho màu sắc của sự li biệt của sự cách xa. “móc sa”ở đây chính là những giọt sương trắng tượng trưng cho mùa thu cho sự lạnh lẽo. Sườn móc xa làm xơ xác cả một rừng phong đang vào mùa thu buồn, những giọt sương làm cho  cánh rừng đã nhuốm màu buồn nay lại được tô điểm thêm khiến cho cảnh vật thêm nét tiêu điều ảm đạm . Cảnh vật buồn được hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ. Hình ảnh rừng phong gợi lên một vẻ thu, một sắc thu tiêu điều, buồn bã. Rừng phong là một biểu tượng của mùa thu phương Bắc, là một thi liệu được nói đến nhiều trong thơ cổ, tuy mang tính ước lệ, nhưng rất gợi cảm thi vị. Hai câu đầu, hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa với 2 cặp từ gợi tả (điêu thương, tiêu sâm). Đỗ Phủ đã làm hiện lên một không gian núi rừng mang một màu sắc buồn thương tàn tạ, hiu hắt. Hai câu thơ tiếp theo tả cảnh thực đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu như hai câu thơ đầu tiên là tả cảnh trên cao thì hai câu thơ tiếp theo thì tả cảnh dưới thấp được cảm nhận qua đôi mắt tinh sảo của thi nhân nhưng chứa đựng rất nhiều tâm sự Trước cảnh vật bao la kì vĩ trước cảnh đất trời nổi sóng dường như con người bé lại và thật nhỏ nhoi thật nhỏ bé biết chừng nào trước thiên nhiên rộng lớn ấy. Các từ “sóng rợn” “mây đùn”đã diễn tả cảnh trời đất rộng lớn bao la hùng vĩ trước con người nhỏ bé. Hai câu thơ đầu tả cảnh sắc buồn tẻ của thiên nhiên thì hai câu thơ sau lại tả cảnh dữ dội hùng vĩ của thiên nhiên như hô ứng đối lập nhau khiến cho bài thơ thêm phần mới lạ và có đôi chút bí hiểm thu hút người đọc. bốn câu thơ đầu bài thơ, cảnh thu từ rừng phong đến Vu Sơn, Vu Giáp, từ dòng sông sóng vỗ, đến cửa ải mây đùn – tất cả đã gợi lên nỗi niềm, bao cảm xúc đối với kẻ tha hương. Ở bốn câu thơ đầu tả cảnh thu, hai câu đề đặc tả cảnh sắc mùa thu đẫm uất bi thương, tàn tạ (điêu thương, tiêu sâm), hai câu thực đặc tả cảnh thu hoành tráng dữ dội (ba lãng, phong vân, tiếp địa âm). Cảnh sắc mùa thu mang dấu ấn của địa phương Quỳ Châu vừa âm u, vừa hùng vĩ, cảnh sắc ấy mang phong cách thơ của Đỗ Phủ vừa trầm uất, vừa bi tráng.

Bốn câu thơ sau tác gải phát triển cảm xúc của mình nỗi lòng tác giả được thể hiện trực tiếp hơn cụ thể hơn:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, 
Cô chu nhất hệ cố viên tâm. 
Hàn y xứ xứ thôi đao xích, 
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm. 
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, 
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà. 
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước, 
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà. )

Hoa cúc cũng giống như rừng phong đều là những như gợi nhớ mọi người đến mùa thu. Nhắc đến mùa thu tác giả nói đến hoa cúc là một điều bình thường nhưng cái lạ ở đây chính là khi nhắc đến loài hoa lại xuất hiện dòng lệ rơi . Chữ “lệ” trong câu thơ này khiến cho người đọc khó nhận biết được đây là lệ của hoa hay chính là lệ của nhà thơ của tác giả. Nhưng có lẽ ta nên hiểu theo ý mỗi khi nhìn hoa của nở nhà thơ lại chạnh lòng nhớ đến quê hương. Những giọt nước mắt đó cũng cứ như thế mà tuôn rơi không thể nào chặn lại được. Hình ảnh hoa cúc tuôn thêm dòng lệ cũ thể hiện nỗi nhớ quê hương trở đi rồi trở lại cứ thấp thỏm trong tâm trạng của nhà thơ đồng thời cũng gợi về dòng lệ chứa chan tình của nhà thơ.

 Đây là hình ảnh thơ vừa có ý nghĩa tả thực, vừa là một biểu tượng nghệ thuật. Khi chạy loạn, cả gia đình Đỗ Phủ đã phải sống trên một con thuyền thả trôi trên sông Trường Giang. Loạn lạc nên họ không thể trở về quê hương được. Tấm lòng thương nhớ quê nhà đành buộc chặt nơi con thuyền nhỏ ấy. Hình ảnh con thuyền còn mang một ý nghĩa khái quát, nó đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật của văn học, dùng để chỉ thân phận lênh đênh của con người. Ở hai câu thơ cuối bổng nổi lên một tiếng chày giặt vải trên dòng sông. Am thanh ấy khiến ta dường như có thể quên được đi cái nỗi nhớ quê hương đang chen lấn đang trôi dậy trong lòng nhà thơ. Nhưng đối với tác giả thì âm thanh ấy lại không đủ để xua tan những áng mây buồn trong lòng người thi sĩ. Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở con người về việc may áo để chuẩn bị cho cái rét cái lạnh. Âm thanh mùa thu may áo vừa  kết thúc bài thơ vừa mở ra một nỗi nhớ mênh mang sâu thẳm trong lòng nhà thơ miên man không dứt. Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã tố cáo mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân cơ bản đẩy con người đến những cảnh ngộ thương tâm. Bài thơ vừa là nỗi u sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của mỗi người dân. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn li ắt hẳn sẽ có sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này. Phần lớn thơ của Đỗ Phủ là thơ luật. Thu hứng cũng nằm trong số đó. Về cấu tứ và hình ảnh quả thực không có gì quá xa lạ. Đó đều là những thi liệu vẫn được các nhà thơ đời Đường ưa thích sử dụng. Nhưng với tài năng tinh luyện ngôn ngữ, sử dụng thanh bằng, trắc và tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước, nhà thơ đã sáng tạo nên một thi phẩm giàu xúc cảm, vừa gợi cảm vừa giàu giá trị nhân văn. Bài thơ là một bức tranh tâm cảnh được bắt đầu từ cảnh để biểu lộ tình. Nó mang vẻ đẹp cổ điển về ngôn ngữ thi liệu, cấu tứ và nồng nàn hơi thở thời đại.

Bài thơ không chỉ là tâm trạng của một Đỗ Phủ trong cảnh ngộ cụ thể. Bài thơ là tâm trạng của nhiều người, của nhiều thời đại khi họ phải sống trong cảnh biệt li, nhất là biệt li trong loạn lạc. Cảnh và tình đã có sự kết hợp rất chặt chẽ tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật và chiều sâu tư tưởng của bài thơ.

Qua tâm trạng của nhân vật trữ tình, bài thơ đã tố cáo mạnh mẽ những cuộc chiến tranh phi nghĩa, nguyên nhân cơ bản đẩy con người đến những cảnh ngộ thương tâm. “Thu hứng” vừa là nỗi u sầu của người nhớ quê, vừa là niềm khao khát một cuộc sống yên bình của mỗi người dân. Ai đã từng sống trong chiến tranh, từng chịu cảnh loạn li ắt hẳn sẽ có sự đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này.

Bài thơ mang đậm cảm xúc của Đỗ Phủ cảm xúc ấy được thể hiện trong từng câu từng chữ của bào thơ. Bên cạnh đó bài thơ cũng cho chúng ta thấy được cái hay của thơ thất ngôn bát cú mỗi câu thơ đều mang cái thần thái cái cảm xúc của nhà thơ được gửi trọn vào tác phẩm.

Danh mục: Văn họcTừ khóa:

Bài viết cùng chủ đề:

About the Author: aiti-aptech

You May Also Like

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *